Lễ hội cầu ngư ở Bình Định

Lễ hội cầu ngư ở Bình Định
Lễ hội cầu ngư ở Bình Định
Lễ hội cầu ngư ở Bình Định
Lễ hội cầu ngư ở Bình Định
Cau_ngu_1_bc4e6_ed60e
Cau_ngu_2_4abab_19ea0
Cau_ngu_3_39919_76cfe
Cau_ngu_4_89526_751b5
Giới thiệu
Địa chỉ: Vùng ven biển các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước, TP. Quy Nhơn thuộc tỉnh Bình Định

Ở Bình Định, ngoài các lễ hội miền xuôi hay miền núi còn có ngày hội cầu ngư của nhân dân các xã ven biển. Tồn tại từ lâu đời, lễ hội cầu ngư là nét đẹp văn hóa truyền thống vô cùng độc đáo của ngư dân. Nó phản ánh đời sống văn hóa tinh thần phong phú và những tín ngưỡng mang màu sắc huyền bí trên sóng nước.

Từ lễ hội cầu ngư

Xuất phát từ cuộc sống lênh đênh sóng gió, luôn phải đối chọi với bão tố, phong ba bằng những phương tiện thô sơ thiếu thốn, người dân vùng biển đành phải tin vào cõi thần linh. Hằng năm, họ tổ chức lễ cầu ngư, cúng "ông Nam Hải" hay cá voi để cầu xin cho trời yên bể lặng, tàu thuyền ra khơi vào lộng được nhiều tôm cá. Vì luôn  phải đối mặt vời những tai họa bất ngờ ập đến, người dân vùng biển thường tin vào những thế lực siêu hình, cho nên lễ cầu ngư còn để cầu mong thủy thần, những người chết sông, chết biển phù hộ cho họ.

Lễ hội cầu ngư thường được tổ chức ở lăng thờ cá voi vào dịp mùa xuân. Đây là nơi cải táng hài cốt của cá voi (cá ông) chết trôi dạt vào bờ. Ở Quy Nhơn có lăng thờ ông Nam Hải thuộc phường Trần Phú được xây dựng để khói hương, thờ cúng thần biển. Ở cửa biển Đề Gi, xã Mỹ Thành (Phù Mỹ) cũng có lăng thờ lớn, tập trung gần 100 bộ xương cá voi bày trang trọng trong các quách để thờ cúng.

Lễ hội cầu ngư thường được tiến hành theo hai phần là: Lễ nghinh (đưa linh), tức là rước hồn các "Đức ông" cùng những người chết sông chết biển về nơi yên nghỉ. Tiếp theo là phần khởi ca với nhiều hoạt động vui chơi như múa hát, đua thuyền, thi bơi... Các hoạt động ở phần này phản ánh những sinh hoạt, lao động của ngư dân trên trên sóng nước.

Và bả trạo

Nét đặc sắc trong lễ hội cầu ngư là loại hình múa hát bả trạo. Bả trạo như một hoạt cảnh múa hát, thể hiện những sinh hoạt, lao động của ngư dân như: chèo thuyền, kéo lưới hoặc đặc tả cảnh đưa linh của một đoàn thuyền chuyên chở những linh hồn oan uổng đến cõi siêu linh.

Một cảnh múa hát bá trạo trong Lễ hội cầu ngư.

Đội bả trạo thường từ 8 đến 16 người, có nơi 12 đến 18 người, trang phục theo lối nghi lễ cổ và 3 vị chỉ huy gồm: tổng mũi, tổng khoan (tổng trung) và tổng lái. Mở đầu lễ hội là một đoạn múa chèo thuyền. Sau khi được lệnh của tổng lái, các tay chèo cùng nhảy bước một, từ một hàng thành hai hàng, rồi chuyển thành 4 hàng dọc. Tiếp đó họ quỳ lạy 3 lạy và bắt đầu day mái chèo. Từ động tác này, ba vị chỉ huy hát theo các điệu tẩu mã, nói lối hoặc hát khách, hát nam. Các con trạo (bạn chèo) thỉnh thoảng phụ họa theo, hoặc lặp lại một đoạn của các vai tuồng. Đối với chèo đưa linh, lời hát thường là những câu cầu siêu, mang tính huyền ảo như "Hò hò đưa linh":

Đưa linh phản hồi

Ai đem chiếc thuyền loan qua bể Bắc

Không cho chim nhạn đậu chốn non đoài...

Hoặc như:

... Mau chỉnh tu bát nhã từ thuyền

Đưa âm linh chớ có nại phiền

Qua khổ ải đặng thoát vòng nghịch kiếp

Thông thường, nội dung các bài hát ở phần đưa linh mang nhiều tính nhân đạo, thể hiện sự cảm thông, thương xót đối với những người vì tai họa bất ngờ phải bỏ mình giữa biển.

Từ động tác bơi chải trong ngày hội đua thuyền đến động tác chèo đưa linh trong hát múa bả trạo, tuy vẫn còn giữ đạo cụ là mái chèo, nhưng đã được cách điệu và thay đổi cho phù hợp với nội dung điệu múa. Nếu trong bơi đua, động tác phải khỏe, nhanh nhẹn, thì trong đưa linh, nó cần chậm rãi, kính cẩn và nhẹ nhàng.

Ở phần khởi ca, vì mang tính chất là một hoạt cảnh, nên buổi múa hát bả trạo diễn ra đầy đủ một quá trình đi biển từ lúc dong thuyền ra khơi cho đến lúc trở về. Trong suốt quá trình đó, đoàn chèo có lúc phải đối chọi với bão tố, hoặc lúc biển lặng thì buông câu, kéo lưới... Những động tác này gợi cho người xem cảm giác thân thuộc và lòng yêu thương gắn bó với biển giã, với nghề nghiệp. Người xem hồi hộp theo nhịp điệu lao động căng thẳng:

Ủa lạ, trời giông nên mới chớp lòa

nhìn biển lặng phút đâu đà nổi sóng

bớ đà trưởng, giông! Giông! Bớ đà trưởng.

Từ cách nói lối phù hợp với nhịp điệu khẩn trương chuyển sang sự bình tĩnh khi đã làm chủ tay chèo lúc trời yên biển lặn với điệu vè:

Linh đinh sóng gió dập dồi

rày sông mai biển mấy hồi gian nan

gian nan nhiều đàn lao lực

thẳng tợ đờn chín khúc quặn đau...

Như vậy, nội dung của hát múa bả trạo không chỉ thuần túy cầu siêu, đưa linh mà còn là một bài ca nghề nghiệp. Đặc điểm này còn được thể hiện ở cách trang phục và múa hát theo kiểu hát tuồng của các vai tổng mũi, tổng lái và các tay chèo trong hát múa bả trạo.

Có thể nói, đến nay, lễ hội cầu ngư cũng như loại hình hát múa bả trạo đã tìm được một vị trí xứng đáng trong nền văn hóa dân tộc. Bỡi trải bao thăng trầm của thời gian và thử thách, những gì còn lại thường là cái tinh túy, đáng được bảo dưỡng, trân trọng.

Tin mới nhất Tin mới nhất